Nhập từ khóa tìm kiếm

Yếu tố nguy cơ tim mạch là gì?

Yếu tố nguy cơ tim mạch là gì?

 

 

Yếu tố nguy cơ của bệnh tim mạch là các yếu tố liên quan với sự tăng thêm kĩ năng bị mắc bệnh tim mạch.

Một người mang một hoặc nhiều yếu tố nguy cơ nào đó Tức là có sự tăng thêm kĩ năng mắc bệnh của người đó chứ Chưa hẳn đề xuất là nặng tay sẽ mắc bệnh . Thường thì các yếu tố nguy cơ hay đi kèm nhau, liên quan nhau phát triển và làm nguy cơ mắc bệnh tăng theo cấp số nhân. Người ta nhận thấy ngày càng có nhiều các nguy cơ tim mạch hình thành .

Sau đó là danh sách của các yếu tố nguy cơ chính của bệnh tim mạch, đã được thừa nhận.

1. Các yếu tố nguy cơ thường xuyên của bệnh tim mạch:

Yếu tố nguy cơ chẳng thể đổi mới được

Yếu tố nguy cơ có thể đổi mới được

Một số yếu tố nguy cơ có thể

Tuổi

Giới

Di truyền (gia đình có người mắc bệnh tim mạch khá sớm)

Tăng huyết áp

Rối loạn lipid (mỡ) máu

Hút thuốc lá

Thừa cân, Béo phì

Giảm dung nạp đường/ Đái tháo đường

Lười di chuyển

Căng thẳng

Estrogen

Tăng đông máu

Rối loạn các bộ phận Apo Protein máu

Uống rượu quá mức

Hói sớm và nhiều đỉnh đầu ở nam

Mạn kinh sớm ở nữ

Chủng tộc…

2. Các yếu tố nguy cơ chẳng thể đổi mới được

– Tuổi

Nguy cơ xảy ra các biến cốtim mạch tăng đều khi tuổi đời bạn tốt hơn . Các nghiên cứu và phân tích dịch tễ học cho thấy, tuổi tác là 1 trong những yếu tố dự đoán Ốm đau quan trọng nhất. Hơn nửa số người bị đột quỵ tim mạch và tới bốn phần năm số người bị chết vì đột quỵcó tuổi tốt hơn 65. Tất nhiên là bạn chẳng thể giảm sút tuổi đời của mình được nhưng việc ăn uống điều độvà sinh hoạt hợp lý có thể giúp làm chậm lại thời kỳ thoái hoá do tuổi tác gây ra.

– Giới

Nam giới có nguy cơ mắc bệnh mạch vành, đột quỵ và các bệnh tim mạch khác tốt hơn đối chiếu phụ nữ ở tuổi xanh . Tuy nhiên, phụ nữ tuổi cao, sau mạn kinh cũng có nguy cơ mắc bệnh tim mạch không khác nhiều đối chiếu nam giới. Hiện nay, bệnh tim mạch ở phụ nữ đang trở thành vấn đề đáng báo động vì sự chủ quan của chính chúng ta .

– Yếu tố di truyền

Những bằng cớ nghiên cứu và phân tích cho thấy những người có yếu tố di truyền (gia đình) mắc bệnh tim mạch hoặc đột quỵ(nam trước 55 tuổi và nữ trước 65) sẽ có nguy cơ mắc bệnh tim mạch tốt hơn những người khác.

Yếu tố di truyền còn bao gồm cả vấn đề chủng tộc (vd. người Mỹ gốc Phi thường bị mắc bệnh tiểu đường và tăng huyết áp tốt hơn đối chiếu người Mỹ da trắng).

3. Các yếu tố nguy cơ có thể đổi mới được

Tăng huyết áp

Tăng huyết áp (THA) là yếu tố nguy cơtim mạch thường xuyên nhất và cũng là yếu tố nguy cơ được nghiên cứu và phân tích đầy đủ nhất. THA được xem là kẻ giết người lặng thầm và là nguy cơmạnh nhất gây các biến cố tim mạch. Huyết áp tăng thường không có hiện tượng gì và gây ra một loạt các biến chứng nguy nan đến tim mạch.

Tăng huyết áp lại thường câu kết với các yếu tố nguy cơ khác, không giống nhau là béo bệu , tăng hàm lượng cholesterol, triglycerid trong máu và đái tháo đường.

Trong các rối loạn này, một rối loạn này có thể là nguy cơ của rối loạn khác và ngược lại .

Việc chữa trị tốt tăng huyết áp giúp làm giảm đáng kể các nguy cơ của nó. Vấn đề đặt ra là thành tựu chữa trị tăng huyết áp không chỉ nương tựa vào việc dùng thuốc mà việc điều chỉnh lối sống như giảm khối lượng , hạn chế muối, luyện tập đều… cũng góp phần chẳng thể thiếu được.

– Tăng cholesterol trong máu và các rối loạn lipid liên quan

Tăng hàm lượng các chất lipid (mỡ) trong máu (cholesterol và triglycerid) rất thường xuyên và là 1 trong những yếu tố nguy cơ có thể đổi mới được quan trọng bậc nhất của bệnh tim mạch. Cholesterol toàn phần bao gồm nhiều dạng cholesterol, trong đó, hai bộ phận quan trọng nhất là cholesterol khối lượng phân tử cao (HDL-C) và cholesterol khối lượng phân tử thấp (LDL-C). Khi nồng độ LDL-C tăng là yếu tố nguy cơ của bệnh tim mạch. Ngược lại, HDL-C được xem là có chức năng bảo kê bạn, và khi hàm lượng HDL-C trong máu càng thấp thì nguy cơ mắc bệnh tim mạch càng cao. Tăng triglycerid, một bộ phận mỡ máu khác, cũng có thể làm tăng nguy cơ mắc bệnh tim mạch.

Các rối loạn lipid máu lại thường đi kèm các nguy cơtim mạch khác như đái tháo đường, tăng huyết áp …

Việc mô tả thông tin (xét nghiệm) nồng độ các bộ phận lipid máu là rất quan trọng , nên làm ở tuổi sau 40. Chế độ ăn uống hợp pháp , cộng đồng dục đều, nếu cần phải dùng các thuốc chữa trị rối loạn lipid máu và điều chỉnh các nguy cơ khác (nếu có) đi kèm là giải pháp hiệu suất cao ngăn ngừa các biến cố tim mạch.

– Hút thuốc lá

Hút thuốc lá (kểcảthuốc lào) là 1 yếu tố nguy cơ đã rõ làm tăng nguy cơ mắc bệnh động mạch vành, đột quỵ, bệnh huyết mạch ngoại vi cho dù những người hút thuốc thường gầy và có huyết áp thấp hơn những người không hút thuốc. Dường như , hút thuốc lá còn gây ung nhọt phổi và các bệnh lí khác.

Hãy không hút thuốc lá (thuốc lào), nếu bạn chưa hút.

Nếu bạn hút thuốc thì hãy bỏ ngay, vì việc bỏ thuốc lá là 1 giải pháp được khẳng định rất hiệu suất cao để giảm nguy cơ mắc bệnh tim mạch. Bạn cũng cần để ý hút thuốc lá thụ động (khi bạn phải hít khói thuốc lá do người khác hút) cũng có nguy cơ không kém.

– Thừa cân/Béo phì

Thừa cân/Béo phì ở các mức độ không giống nhau đều làm tăng nguy cơ mắc bệnh tim mạch. Béo phì có thể ảnh hưởng tới sự hình thành các yếu tố nguy cơ khác. Béo phì càng nhiều thì kĩ năng hình thành các yếu tố tiền đề cho xơ vữa động mạch như tăng huyết áp , đái tháo đường cũng tương tự nguy cơ mắc bệnh tim mạch càng cao.

Để tính khối lượng lí tưởng, người ta dựa trên chiều cao và khối lượng của doanh nghiệp để tính ra chỉ số khối lượng thân thể (BMI).

Dường như , vòng bụng là 1 trong chỉ số quan trọng bởi béo bệu ở bụng còn liên quan ngặt nghèo với các yếu tố nguy cơ tim mạch khác đó là tăng huyết áp , rối loạn mỡ máu, giảm dung nạp đường và đái tháo đường. Tốt nhất bạn nên giữ vòng bụng < 90 cm (nam giới) và < 75 cm (nữgiới).

Đái tháo đường và kháng insulin

Những người mắc bệnh đái tháo đường, không giống nhau là đái tháo đường type II, có tỉ lệ mới mắc bệnh mạch vành và đột quỵtốt hơn người bình thường . Bản thân bệnh nhân đái tháo đường cũng thường chết vì nguyên do tim mạch. Ngay cảkhi lượng đường trong máu chỉ mới tăng nhẹ thì nguy cơ mắc bệnh tim mạch cũng tốt hơn . Những người đái tháo đường type II thường có nồng độ insulin trong máu cao, và cố nhiên tình hình kháng Insulin. Đái tháo đường và đề kháng Insulin làm tăng nguy cơ tăng huyết áp , rối loạn lipid máu, tăng lắng đọng cholesterol vào mảng vữa xơ động mạch. Hậu quả, là liên quan thời kỳ xơ vữa và các biến chứng của nó.

Trong thực tiễn , giảm khối lượng và luyện tập có kĩ năng liên quan thời kỳ sử dụng đường và giúp bạn ngăn ngừa hoặc làm chậm lại sự hình thành của bệnh đái tháo đường. Việc chữa trị khống chế tốt đường huyết (nếu bạn bị) sẽ làm giảm đáng kể nguy cơ bệnh tim mạch.

Những người bị đái tháo đường từ khi còn trẻ (gọi là đái tháo đường type I) lại có nhiều nguy cơ tổn thương thận và mắt hơn là bệnh mạch vành hay đột quỵ. Trong trường hợp này, insulin bị thiếu hụt trầm trọng do bệnh lý ở tuỵ.

– Lười di chuyển (lối sống tĩnh tại)

Lối sống tĩnh tại được coi là 1 nguy cơ của các nguy cơtim mạch. Việc di chuyển hàng ngày đều đặn chí ít 30 phút đem lại ích lợi rõ rệt trong giảm nguy cơ bệnh tim mạch. Người ta đã khẳng định việc luyện tập thể lực thường xuyên làm giảm nguy cơ hình thành nhồi máu cơ tim song song cải thiện kĩ năng sống sót khi xảy ra nhồi máu cơ tim.

Tập luyện nghe đâu cũng có ảnh hưởng tích cực tới các yếu tố nguy cơkhác. Người ta cho rằng ích lợi của luyện tập là ở việc giảm khối lượng , tăng kĩ năng dung nạp đường, tăng sức mạnh cơ tim, tăng nồng độ HDL-C, giảm căng thẳng, hạ huyết áp …

Các nguyên lý luyện tập được đề xuất là tập đều (hồ hết các ngày), mỗi ngày chí ít 30 phút, tập đủ mạnh (ấm người, thở hơi nhanh, ra mồ hôi vừa).

– Vấn đề uống rượu

Hiện nay, các đề xuất cho rằng, nếu sử dụng điều độ, tức không thật một công ty uống mỗi ngày, uống rượu không gây nguy cơ tim mạch và trong chừng mực nào đó có thể giúp ngăn ngừa xơ vữa động mạch và bệnh mạch vành, có lẽ rượu đã làm tăng lượng HDL-C trong máu (rượu vang đỏ).

Tuy nhiên, thời điểm hiện tại vẫn chưa có đầy đủ bằng cớ và sự thống nhất đề xuất mọi người uống rượu một cách hệ thống. Hơn nữa, uống rất nhiều rượu (nhiều hơn một công ty uống: tương đương 60ml rượu vang , 300 ml bia, hoặc 30 ml rượu nặng) mỗi ngày lại có thể vô ích cho sức khoẻ. Lúc đó rượu có thể làm tăng huyết áp , tăng nguy cơ tổn thương gan và biến chứng tâm thần trung ương cũng tương tự rất nhiều rối loạn khác, một vài trong số đó lại là các rối loạn về tim mạch.

Item :244

Một người mang một hoặc nhiều yếu tố nguy cơ nào đó có nghĩa là có sự gia tăng khả năng mắc bệnh của người đó chứ không phải bắt buộc là chắc chắn sẽ bị bệnh. Thường thì các yếu tố nguy cơ hay đi kèm nhau, thúc đẩy nhau phát triển và làm nguy cơ bị bệnh tăng theo cấp số nhân.

Giá sản phẩm: Liên hệ(Giá sỉ lẻ rẻ nhất Việt Nam)

Tới trang đặt hàng

Đặt hàng tại: Đặt mua thuốc trực tuyến
Trang chủ nhà thuốc: Nhà thuốc Online
Hotline: 0981 199 836

Lưu ý: Tin tức copy tại nhiều nguần khác nhau, nếu không ghi rõ nguần, mong chủ bài viết thông cảm và phản hồi lại giúp nếu tin tức có bản quyền và cần thâm nguần trích dẫn. muathuoconline.net cảm ơn các bạn

Yếu tố nguy cơ tim mạch là gì?
Đánh giá bài viết

TrungTamThuoc